Thứ Tư, 7 tháng 9, 2011

Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn Người

Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn Người”

“tạ ơn đời, ta ơn ai, đã đưa em về chốn này” “tôi xây mãi cuộc vui.” (Trịnh Công Sơn – Tạ Ơn)
(1P 2: 9-10)
Tạ ơn người. Tạ ơn đời. Tạ ơn người đời, hay tạ ơn cả đời người, cũng là tạ rất nhiều ơn. Tạ ơn, cả những người đã cho tôi trọn cuộc đời, luôn có Chúa. Đó, là ý nghĩa của cụm từ bên tiếng Anh, tiếng của Em, đúng hơn cả tiếng của người rất Mỹ, có chữ “Thanksgiving”, cũng từng hát:
“Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn Người
tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi
còn thấy những ngày ngồi mơ ước, cùng Người.
(Trịnh Công Sơn – bđd)
Tạ ơn Người. Tạ ơn đời. Còn, là tiếng phát xuất từ tâm hồn của người Mễ (tức Maya) có gốc nguồn từ một văn minh xưa cũ, mà người xưa dám dùng từ rất lếu láo gọi họ là “Mọi Da Đỏ”, rất chói tai. Bởi, da họ đâu mầu đỏ. Và, người họ đâu là “Mọi”. Vẫn văn minh, còn hơn nhiều giòng giống. Giống nòi Maya, không chỉ sở đắc hoặc hiện hữu mỗi 4 ngàn năm văn vật, như tộc Việt người nhà mình và họ còn là bộ tộc rất văn minh từng xây dựng Kim Tự Tháp rất đặc biệt ở xứ Mỹ (chứ không hẳn Hoa Kỳ), vì nước này “cầm nhầm” danh xưng “Mỹ” của người Mễ, rất Maya. Hoặc “Americano”, thật tiêu biểu.
Nói dông nói dài (không hẳn nói dai) là để nói lên những điểm nhỏ về nền văn minh/văn hiến cả ngàn năm có lẻ, của người dân bộ tộc rất “Mỹ-mà-không-Bông-Kỳ” (xứ Mễ-Tây-Cơ rất Maya), là ở chỗ: luôn biết tạ ơn Người. Tạ ơn đời. Tạ ơn người đời, luôn có nhau. Cũng vì tinh thần cảm kích, biết mà tạ ơn ấy, nên hầu hết các bộ tộc Aztec, Olmec, Yaqui, Trique, Maya, Tarahumara… xứ này có tập tục dâng lên thần thánh của mình toàn thân thể của kẻ chiến thắng trong giác đấu, hoặc song đấu để tạ ơn ngay trên nóc “kinh tự tháp” của tộc mình.
Tạ ơn đây, còn là điểm tương đồng Tây/Ta, giữa tà thần và Đạo Chúa. Nhà Đạo mình, cũng có tục dâng tiến Giavê, người con độc nhất, làm của lễ rất “tạ ơn”, như ở Cựu Ước, có Abraham, Isaac, Yacob… vẫn giữ tinh thần rất “thanksgiving”, kiểu của bộ tộc da-không-đỏ, rất Maya đất Mễ.
Về lại nhân loại, đôi lúc có người hỏi tinh thần “tạ ơn” là tinh thần gì, thì đây câu đáp ở bài hát:
“Dù đến rồi đi, tôi cũng xin: tạ ơn Người tạ ơn đời, tạ ơn ai, đã cho tôi còn những ngày quên kiếp sống, lẻ loi. Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn Người tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi tình sáng ngời như sao xuống, từ Trời.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)
“Tình sáng ngời”, Trời ban cho tôi, “như sao xuống”, có thể là nhiều thứ. Những thứ thông thường như: tài năng, kiến thức, sắc đẹp, tình yêu. Có thể, là thứ đặc biệt, rất hiếm, là niềm tin vào Chúa Trên Cao. Mà, người đời gọi đó là “tín ngưỡng”.
Duy có điều, là: niềm tin rất “tín và ngưỡng” hôm nay, đã có dấu hiệu lạ thường, ở nhiều nhóm. Nhóm tiêu biểu nhất lá nhóm trẻ, ở nhiều chốn. Nơi và chốn, dễ thấy nhất là đất tự do con cái Chúa. Vì tự do, nên người con của Chúa nay đã có tín hiệu hiểu biết tính tự do, theo kiểu khác. Khác người. Khác đời. Khác cả người đời thuở xa xưa.
Về niềm tin vẫn trụ nơi tâm can nhóm người trẻ tuổi nay đã thấy xuất hiện nhiều hiện tượng cùng tư tưởng dám cho rằng tín ngưỡng/niềm tin vào Đạo, nay đang “nát” nơi đầu óc của thế hệ trẻ vào tuổi “tin”. Như bản tường trình do tác giả Denyse O’Leary viết trên báo điện “MercatorNet hôm 25/7/11 như sau:
Vừa rồi đây, chúng tôi có dịp để mắt nhìn vào khẳng định được đăng tải trên tờ báo khoa học khá nghiêm chỉnh mang tên “Intelligence” cho rằng niềm tin vào Thiên Chúa có tương quan rộng lớn với “hệ số thông minh” khá thấp.
Cũng trên báo này, trong cùng năm, chúng tôi được người viết bảo cho biết là: với tuổi “teen” ở Hoa Kỳ, thì giữa tôn giáo và nhóm tuổi “teen” có hệ số thông minh thấp, luôn có tương quan mật thiết. Thử nghĩ xem, tuổi “teen” đây lớn lên với niềm tin tưởng rằng: trước kia các hành xử không nghiêm chỉnh làm tan nát đầu óc của họ thế nào, thì nay, đối với người trẻ sùng đạo, nay lại là: tôn giáo!
Helmuth Nyborg, một cây viết ở Mỹ từng thực hiện cuộc điều tra để xem thực hư thế nào đối với người trưởng thành, đã để lại một báo cáo như sau: “Hiện nay đã có khảo sát nghiên cứu xem Hệ số thông minh (gọi là IQ) có gì liên hệ đến hệ thống xếp loại theo mẫu số chung và lợi nhuận trong cùng một khuôn khổ quan hệ với “mầm gien”, vốn sử dụng các dữ liệu đại diện lấy từ Nghiên Cứu Khảo Sát Toàn Quốc Theo Chiều Dọc Về Tổi Trẻ (NLSY97). Theo khảo sát này, nhóm Vô thần có 1.95 điểm IQ cao hơn nhóm Ngộ Đạo, và 3.82 điểm IQ cao hơn nhóm Thệ Phản Phóng Khoáng và 5.89 điểm IQ của nhóm chủ trương chuyên vào Giáo điều. Nói chung, các giáo phái khác biệt chỉ là do hệ số thông minh và lợi tức, thôi. Lòng tin vào Đạo đang giảm sút ở tuổi từ 12 đến 17.”
Điều thấy rõ, là: hệ số thông minh (IQ)khiến các cá thể ra như đang bị hút xuống đáy vực theo giáo phái và mức độ thành tựu nào thích hợp với trình độ riêng rẽ của hệ thức phức tạp về hiểu biết. Và, nói theo hệ thức phát triển cá thể, thì điều này có nghĩa: các giáo phái hiện thời được xếp hạng theo thứ tự “gien” di truyền về trí tuệ, tức hệ số IQ. Về mặt tiến hoá, các nhà vô thần hiện đại đang phản ứng một cách có lý với các thách thức về tầm hiểu biết và cảm xúc. Trong đó, giới Thệ Phản Phóng khoáng và đặc biệt là nhóm chủ trương Giáo điều vẫn còn tuỳ thuộc vào tư duy xưa cổ, tiền sử, siêu nhiên và mơ tưởng.” (x. Denyse O’Leary, MercatoNet 25/07/2011)
Nói gì thì nói. Bảo gì thì bảo. Nếu cứ nhận định theo sách vở với điều tra, nghiên cứu kiểu “chẻ từng chữ”, thì nhiều người đọc cứ tưởng như có thật. Mà sự thực, thì các nhà khảo sát/nghiên cứu kiểu “phóng đãng” trên lại căn cứ trên thống kê lập với một số người, rất thiên vị. Chẳng thế mà, tác giả Denyhse O’Leary, đã nhận định ngay rằng:
“Hẳn rằng khảo sát viên Nyborg chắc không bị tật nguyền khập khiễng với bệnh thiếu khách quan. Xem ra Ông này không am tường về các nhánh giáo hội vẫn ăn khớp với nhau, khá chặt chẽ. Chẳng hạn, ông liệt vào nhóm giáo phái “Phóng khoáng”, gồm những vị thuộc Giáo hội Anh Giáo, Do thái giáo, Tin Lành MêthôĐi, Giáo phái Tin Lành thuộc nhóm Calvin, Luther và các nhóm Thệ Phản khác. Sự thật, tất cả các phe nhóm giáo hội từ cánh cực-phóng khoáng cho chí cổ truyền vẫn có khuynh hướng bám sát nhóm tuổi “teen” theo đuôi họ ngang qua các câu lạc bộ tuổi trẻ, ở nhiều nơi. Bởi, các nhóm mà tác giả này gọi là Thệ Phản khác, có khi còn khắt khe hơn Giáo hội nói chung chung của mình nữa.
Và, ông lại còn xếp hạng cùng với nhóm “Giáo điều”, là nhóm Đồ đệ Đức Kitô, Hội thánh hiệp nhất Đức Kitô, Công giáo La Mã, Mormon, Giáo hội Kinh Điển, Hồi giáo, Giáo hội Báptít, Phong trào Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Có điều chắc chắn là tác giả đã lầm lẫn giữa nhóm Đồ Đệ Đức Kitô với Giáo hội Hiệp nhất của Đức Chúa và coi họ như một giáo phái đại đồng. Sự thật thì những người được thanh tẩy đều là con cái Chúa, đang ở rải rác khắp nơi trên bản đồ của thế giới. Tác giả lại chắc mẫm rằng những vị thuộc Giáo hội Công giáo, Mormon, và Hồi giáo theo nghĩa họ có niềm tin cốt lõi, không thể đổi thay. Trong khi đó, người Công giáo không thường xuyên đi nhà thờ giữ đạo, lại sống rời rạc, không sinh hoạt tập thể, vẫn còn rất đông, đếm không xuể. Và, không hiểu tác giả nói chữ “giáo điều” đây, theo nghĩa nào. Nói chung, thì Helmuth Nyborg đã tạo thứ ấn tượng tách bạch mà lại không có chiều sâu hậu cảnh cần thiết để thiết lập danh bạ mang tính thông tin hơn.
Tắt một lời, tác giả Helmuth Nyborg đã thất bại khi tìm cách xếp loại giáo phái theo quan điểm chọn lựa hoặc quyết tâm làm thành viên của mỗi nhóm, mà lại không đánh bật được ý nghĩa của mỗi chọn lựa, nơi họ. Thật sự thì điều mà tác giả Nyborg cũng như Lynn nói đến, lại chỉ chứng minh được một điều là: sự tự do về trí tuệ đều tương quan với hệ số thông minh cao và với quan điểm khác biệt về niềm tin vào Thiên Chúa, chỉ cốt để chiếu dọi chút ánh sáng khi trắc nghiệm về điểm IQ, thế thôi.” (x. Denyse O’Leary, bđd)
Nói cho cùng, có phân tách và so sánh niềm tin tôn giáo với trí thông minh sáng láng, vẫn là những chuyện nghe qua rồi quên đi. Bởi, người trẻ hay ai đó, có đưa ra những phát giác mới, rất kinh khủng, cũng chỉ là để đánh bóng tư tuởng hoặc lập trường, tưởng-như-là-mới-keng của mình, mà thôi.
Về những “phát giác kinh khủng” liên quan đến niềm tin và sự khâm phục lời dạy của bậc thày, trong ngoài Đạo, có những truyện kể rất dễ nể, để minh hoạ cho các luận chứng nói ở trên, có thể đề ra, như sau:
“Bậc thày Hasan rất nhân hiền của Đạo Hồi, được đệ tử mình hỏi: thầy có bao nhiêu bậc thày cả thảy, thì hiền nhân Hasan đáp:
-Những người thầy của ta nhiều vô kể. Nếu điểm lại tên tuổi của các vị ấy hẳn sẽ mất hàng tháng, hàng năm, và như thế lại quá trễ vì thời gian của ta còn rất ít. Nhưng ta có thể kể về ba người thầy sau của ta.
Người đầu tiên là một tên trộm. Có một lần ta đi lạc trong sa mạc, khi ta tìm đến được một khu làng thì trời đã rất khuya, mọi nhà đều đi ngủ cả. Nhưng cuối cùng ta cũng tìm thấy một người, ông ta đang khoét vách một căn nhà trong làng. Ta hỏi ông ta xem có thể tá túc ở đâu, ông ta trả lời:"Khuya khoắt thế này thật khó tìm chỗ nghỉ chân, ông có thể đến ở chỗ tôi nếu ông không ngại ở chung với một tên trộm."
Người đàn ông ấy thật tuyệt vời. Ta đã nán lại đấy hẳn một tháng! Cứ mỗi đêm ông ta lại bảo: "Tôi đi làm đây. Ông ở nhà và cầu nguyện cho tôi nhé!" Mỗi khi ông ta trở về ta đều hỏi: "Có trộm được gì không?" và ông ta đều đáp: "Hôm nay thì chưa, nhưng ngày mai tôi sẽ cố, có thể lắm chứ". Ta chưa bao giờ thấy ông ta trong tình trạng tuyệt vọng, ông ta luôn hạnh phúc.
Có lần ta đã suy ngẫm và suy ngẫm trong nhiều năm ròng để rồi không ngộ ra được một chân lý nào. Ta đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, tuyệt vọng đến nỗi ta nghĩ mình phải chấm dứt tất cả những điều vô nghĩa này. Ngay sau đấy ta chợt nhớ đến tên trộm, kẻ hằng đêm vẫn quả quyết: “Ngày mai tôi sẽ làm được, có thể lắm chứ!”
Người thầy thứ hai là một con chó. Khi ta ra bờ sông uống nước, có một con chó xuất hiện. Nó cũng khát nước. Nhưng khi nhìn xuống dòng sông, nó thấy cái bóng của mình nhưng lại tưởng đó là một con chó khác. Hoảng sợ, nó tru lên và bỏ chạy. Nhưng rồi khát quá nó bèn quay trở lại. Cuối cùng, mặc nỗi sợ hãi trong lòng, nó nhảy xuống sông và cái bóng biến mất. Ta hiểu đây là một thông điệp đã được gửi đến cho ta: “Con người phải biết chiến thắng nỗi sợ trong lòng, bằng hành động.”
Người thầy cuối cùng là một đứa bé. Ta đến một thành phố nọ và thấy một đứa bé trên tay cầm một cây nến đã thắp sáng để đặt trong đền thờ. Ta hỏi đứa bé: "Con tự thắp cây nến này phải không?" Đứa bé đáp: "Thưa phải." Đoạn ta hỏi: "Lúc nãy nến chưa thắp sáng, nhưng chỉ một thoáng sau đã cháy sáng. Vậy con có biết ánh sáng từ đâu đến không?"
Đứa bé cười to, thổi phụt ngọn nến và nói: "Ngài thấy ánh sáng đã biến mất, vậy ngài bảo ánh sáng đã đi đâu?" Cái tôi ngạo nghễ của ta hoàn toàn sụp đổ, pho kiến thức kim cổ của ta cũng sụp đổ theo. Lúc ấy ta nghiệm ra sự dốt nát của bản thân. Và từ đó ta vất đi tất cả những tự hào về kiến thức của mình. Đúng là có thể nói ta không có một ai là thầy, nhưng điều này không có nghĩa ta không phải là một học trò. Ta xem vạn vật là thầy. Tinh thần học hỏi của ta luôn rộng mở hơn tất cả các người. Ta học hỏi từ tất cả mọi vật, từ cành cây ngọn cỏ đến đám mây trên trời kia. Ta không có một người thầy vì ta có hàng triệu triệu người thầy mà ta đã học được mỗi khi có thể. Điều thiết yếu trong cuộc sống là luôn làm một học trò. Điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là có khả năng học hỏi, luôn sẵn sàng học để biết chấp nhận ý nghĩa của vạn vật.”
Nói gì thì nói. Kể gì thì kể, dù kể về bậc thày-nhân-hiền ở nhiều nơi, vẫn là nói và kể về những điều rất đáng nể. Để thực hiện trong cuộc đời. Duy có một chân lý được đấng bậc hiền nhân quân tử xưa từng quả quyết:
“Anh em là giống nòi được tuyển chọn,
là hàng tư tế vương giả,
là dân thánh,
dân riêng của Thiên Chúa,
để loan truyền những kỳ công của Người,
Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối,
vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.
Xưa anh em chưa phải là một dân,
nay anh em đã là Dân của Thiên Chúa;
xưa anh em chưa được hưởng lòng thương xót,
nay anh em đã được xót thương.”
(1P 2: 9-10)
Là dân con được Chúa tuyển chọn, được hưởng lòng xót thương từ Đức Chúa, hẳn bạn và tôi ta càng có lý để hát lên những lời mà người nghệ sĩ ngoài Đạo vẫn còn hát:
Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn Người
tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi
còn thấy những ngày ngồi mơ ước, cùng Người.
(Trịnh Công Sơn – bđd)
Hãy cứ tạ ơn Người. Dù Người đã đến, rồi lại đi. Người có đi, nhưng Người sẽ về lại cùng Thánh Thần Người để ở mãi mãi với con người. Hãy cứ tạ ơn nhé anh, nhé em. Ơn người. Ơn đời.
Trần Ngọc Mười Hai
những quyết tâm và tụng niệm
sẽ mãi mãi tạ ơn Người.
Tạ ơn mọi người.

Saturday, 27 August 2011

“Thời gian nào, trôi bềnh bồng trên phận người”

“Thời gian nào, trôi bềnh bồng trên phận người” Biệt ly nào không buồn phiền trên dấu môi…”
(Vũ Đức Sao Biển – Thu Hát Cho Người”)
(Mt 18: 3)
Là Thu, đã hát cho Người, mà sao anh vẫn cứ bảo:“Thời gian nào, trôi bồng bềnh trên phận người.”? Để rồi, lại còn viết: “Biệt ly nào không buồn phiền, trên dấu môi!” Phải chăng, nói như thế, tức bảo rằng: đời người, nào có vui?
Bần đạo đây, không đủ tư cách để trả lời những câu hỏi mang ý nghĩ ly kỳ như thế. Chỉ dám vin vào lời lẽ của tác giả viết nhạc buồn bằng cách trích dẫn một chuyện vãn văn nghệ với phóng viên tuần báo “Sinh viên” như sau:
“Âm nhạc là thú chơi, quà tặng của cuộc sống dành cho con người. Tình khúc của tôi không ồn ào, sôi động, nó là bức thông điệp của một người gửi đến đám đông những suy tưởng về cuộc sống, tình yêu và sự xa biệt", nhạc sĩ của "Điệu buồn phương Nam""Thu, hát cho người" tâm sự…
-"Thu, hát cho người" của ông đã gây xúc động cho người nghe bởi sự biệt ly, cô đơn và lẻ loi trong chờ đợi, ông viết bài này trong hoàn cảnh nào?
-Tôi viết năm 1968, khi 20 tuổi, với một tình yêu trong sáng và những cảm xúc yêu thương rất thuần khiết. Nhưng rồi cũng chỉ là một tình yêu đơn phương, vô vọng và chia xa...
- Ông nghĩ sao khi có ý kiến cho rằng, tất cả các bài hát của ông đều mang tâm trạng buồn?
- Quả thật tôi viết không có bài nào vui. Cả trăm ca khúc là cả trăm nỗi buồn, mỗi bài một vẻ. Có khi tôi cũng thử viết một vài ca khúc sôi động, nhưng rồi cảm thấy gượng ép quá, không viết nữa. Bây giờ nghiệm lại, tôi chỉ có thể viết theo những lắng đọng từ trong tim dẫn dắt và bật ra thành lời ca, nốt nhạc, thế thôi.
- Ngoài sáng tác, ông còn viết báo. Hai việc đó, một đòi hỏi sự tỉnh táo, khách quan, một cần sự bay bổng, lãng mạn. Tại sao chúng dung hòa được trong ông? - Viết báo và sáng tác có phương tiện, cách thức thể hiện khác nhau nhưng đích đến vẫn là một: lòng yêu thương con người, nên cũng không có gì mâu thuẫn cả. Đi làm báo, tiếp xúc với những số phận con người, lòng tôi lúc nào cũng tràn ngập cảm xúc khó tả. Đêm về, nằm nghĩ lại, nhiều khi trăn trở ấy lại tạo mạch cảm hứng cho tôi viết ca khúc…
-Điều ông luôn tìm kiếm để vươn tới trong suốt cả cuộc đời mình là gì?
-Tình yêu. Đó là thứ quý giá nhất trong cuộc sống. Chính tình yêu thương con người đã chắp cánh cho tâm hồn và cả nghị lực sống của tôi, cho tôi cảm xúc thăng hoa trong sáng tác... và tôi là người lữ hành đam mê tình yêu... (x. music.vietvoice.net/song_details.php?lang=vietnamese&ID=430)
Vâng, lập trường của tác giả “nhạc buồn” họ Vũ Đức tên gọi Sao Biển là như thế. Thế nhưng, “như thế” không có nghĩa là tất cả những người viết nhạc nào khác, đều như vậy. Tức là, toàn viết những giòng nhạc buồn chứ không vui. Dù đời người quả thật vẫn vui, chứ không buồn. Và, tiếp theo đó, là lý do của những “Thu hát cho người” hoặc “Điệu buồn (rất) phương Nam”, của ông:
“Thời trung học, cứ mỗi lần đi học ở trường Tiểu La, tôi vẫn có thói quen hay uống café tại một quán rất quen thuộc tên là Café Thu. Quán giản dị với những chiếc bàn đã cũ kỹ theo năm tháng. Ngày ấy, ở thị trấn Hà Lam (Thăng Bình, Quảng Nam), ai cũng biết quán này, chủ nhân là một người đàn bà trên 30 tuổi, nhưng còn rất đẹp và sâu lắng. Một điều đặc biệt, café ở đây rất ngon, nhạc hay và buồn như chính chủ nhân của nó. Lúc bấy giờ, thứ “nhạc vàng” này, người ta thường hay cấm nên mỗi khi nghe xong, tôi nuốt từng lời, về nhà chép lại và tập với cây đàn guitar cũ. Chính vì thế, tội thuộc rất nhiều nhạc của các nhạc sĩ: Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thuỵ Miên,… Trong lúc rỗi, tôi cũng thường nói chuyện với chủ quán, những lúc như vậy, đôi mắt cô Thu thừơng đượm buồn, xa xăm, nhớ về một dĩ vãng không xa lắm…” (Trích cảm nghiệm của tác giả Sao Biển qua điện thư buồn của bạn hiền, gần đây)
Gợi nhớ điệu buồn nghệ sĩ viết, thì như thế. Thế còn, hồi ức vui của tôi và của bạn, sẽ ra sao?
Ra sao hay ra răng, bần đạo đây rày chẳng biết. Chỉ biết mỗi một điều, là: xung quanh hồi ức về Đạo của riêng mình, vẫn thấy rất nhiều điều lạ và vui hơn nỗi buồn trăm năm, của nhà thơ. Buồn sao được, khi bần đạo mới ở độ tuổi “hai năm rõ mười”, vào cái tuổi rất ư là phá phách/nghịch ngợm, đến phát sợ. Không chỉ phá, còn là la cà ngoài đường chòm xóm những bay nhảy, cùng chạy rong đã bị -ấy chết, nói “được” thì đúng hơn- Vâng! Bần đạo được mẫu thân gọi lại mà nhủ bảo nhiều điều rất vui và chí tình mà đến bây giờ, hơn 50 năm sau nhìn lại, bần đạo vẫn còn nhớ như in trong hộp não vừa bé lại vừa tệ, hơn ai hết. Mẫu thân bần đạo, là cụ bà chân chất xuất thân từ đất Hà Nam - Phủ Lý, rất quê nhà. Cụ sống nhiều năm ở chốn thị thành, vốn dĩ thiếu niềm vui nhà Đạo, nên mới gọi bảo:
“Con à. Nhà mình thì đông đúc, giòng họ lại sung túc nhiều, thế mà chẳng được một ai chịu làm việc trong nhà Chúa để được vui đuợc sướng, ở chốn này. Hay là, con thử tìm đến hỏi cha xứ họ mình hỏi xem ngài có bằng lòng cho con theo học để đời con được sướng vui không con nhé…”
Hồi ức của bần đạo tuy không sắc và thanh tao như người nghệ sĩ nhắc ghi ở trên. Duy, có một điều khiến bần đạo nắm chắc rất rõ là: ý của mẫu thân bần đạo khi ấy chỉ muốn cho bầy con sống sung sướng với cha với Chúa, chứ chẳng mong cho buồn con khổ như bất cứ ai trên đời, chí ít là người nghệ sĩ. Mẫu thân bần đạo, vốn xuất thân từ chốn quê mùa chân chất, rất đạo hạnh, nên nghĩ thế. Cụ vẫn tưởng rằng sống Đạo ở đời bao giờ cũng vui, cũng sướng hơn người đời chỉ ca với hát hết những bài “Thu hát cho người”, rồi lại đến “Điệu Buồn Phương Nam”, nên mới thế.
Hôm nay nghe lại lời ca sầu phát ra từ loa phóng thanh của ai đó, bên hang xóm, bần đạo thấy như văng vẳng một lời trần (rất) tình, biết đâu trong giọng buồn ấy, mình lại tìm ra lời ca vui ở câu cuối. Câu hát rằng:
“Giòng sông nào, đưa người tình đi biền biệt?
Mùa thu nào, đưa người về thăm bến xưa?
Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ,
Về đồi sim, ta nhớ người vô bờ…”
(Vũ Đức Sao Biển – bđd)
Nhớ người vô bờ, ở “đồi sim” không là chỉ nhớ mỗi lời buồn của người đời, mà thôi. Dù, người đó có là mẹ đẻ ra mình, hay của người cha ở bốn phương tám hướng, phía chân trời bể dâu, vẫn là nhớ. Nhớ, là bởi bậc mẹ cha ở đời hay trong Đạo, vẫn là các đấng các bậc có những lời thơ để đời, mong ta ghi và nhớ, rất như sau:
“Trong bài nói chuyện với người trẻ ở Madrid sau Đại Hội Giới Trẻ một ngày, Đức Bênêđíchtô 16 kêu gọi giới trẻ hãy đem theo những gì mình học được từ Đại hội Madrid về nhà mà san sẻ cho cộng đồng. San sẻ niềm vui đức tin mình học được: “Anh em đừng giữ Chúa cho riêng mình. Hãy san sẻ với người khác, niềm vui ấy” (www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2011/08/110822_pope_closed_wyd.shtml?pri...)
Lời Đức Giáo Tông nói lên hôm ấy đã khiến nhiều người nhớ đến Lời Chúa từng phán bảo:
“Thầy bảo thật anh em:
nếu anh em không hoán cải nên như trẻ bé,
anh em sẽ chẳng vào được Nước Trời.”
(Mt 18: 3)
Người trẻ bé mọn ở đây, là người còn nghèo và cũng rất hèn, bị bỏ rơi hoặc quên lãng ở xó chợ, ngoài xã hội. Những người ấy, vẫn dẫy đầy nơi đất trời, ở mọi nơi. Nhưng hỏi rằng, trời kia đất ấy có nhớ họ không, đó mới là vấn đề. Và, vấn đề nay còn nhạy cảm như lời đấng bậc chủ quản ở trời Tây đất Mẹ cũng đề cập đến Đại Hội Giới Trẻ ở Madrid 2011 hôm vừa qua, cùng với những lời trần rất chí tình cũng giản đơn, chân chất, thành thật như sau:
“Trong lúc Hội thánh Công giáo tìm cách giúp đỡ người trần đến được Nước Trời, thì rất thường là Hội thánh hay đối xử với thành viên trẻ của mình như thể họ đến từ một hành tinh nào đó, khá xa xôi. Ý tưởng đối xử với người trẻ như người từ hành tinh mới xuất hiện, là của một viên chức cao cấp trong Giáo triều La Mã, đã nói thế trong cuộc phỏng vấn bên lề Đại Hội Madrid hôm 16/8/11.
Phát biểu với phóng viên Đại Hội, Tổng Giám Mục Joseph W. Tobin, Tổng Thư Ký Thánh Bộ Tu Sĩ và các Tu Hội Sống Đời Mục Vụ, có nói: “Người trẻ hôm nay có thể tìm thấy chính mình ngay trong lòng Hội thánh; nhưng cho đến nay, họ vẫn trong tư thế sống bên lề Hội thánh do bởi một số chuyện như: rất nhiều vị không nói cùng một thứ ngôn ngữ như họ, nên đã đối xử với họ như với người từ hành tinh khác chợt đến.”
Với người trẻ Công giáo, Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới vẫn là lễ hội qua đó họ có thời gian, không gian và tình bằng hữu thân thưong cần có, để có thể suy tư về đường lối mà Chúa muốn họ sống niềm tin tươi mát ngay trong Hội thánh, cũng như giữa lòng đời. Thêm vào đó, có sự kiện cho thấy người trẻ hôm nay đang sẻ san kinh nghiệm tư riêng của mình với cả trăm ngàn bạn trẻ khác đến từ khắp nơi, trên thế giới. Đại Hội nay đem đến cho họ một dịp may hiếm có để họ có thể tham gia vào nghi thức phụng vụ, cùng nguyện cầu trong lặng thinh cũng như tìm hiểu thêm huấn giáo của Đạo, dành cho mình.
Với những ý tưởng như thế, đấng bậc chủ quản trên còn nói thêm: “Trong khung cảnh như thế này, người trẻ hôm nay còn có cơ hội gặp gỡ bầu bạn đang dấn thân vào cuộc đối thoại mà tất cả chúng ta cần có với Đấng Tác Tạo nên mình, bằng cách hỏi Ngài: “Chúa muốn con làm gì?”
Tổng Giám Mục Tobin còn cho biết: cuộc hội ngộ dành cho giới trẻ rất cần thiết cho những ai suy nghĩ về những đáp trả lời gọi mời đi vào cuộc sống chuyên tu giáo sĩ hoặc đời tu trì, và cho cả những vị từng dấn thân vào hành trình có lời tuyên hứa hoặc đã được tấn phong. Nói về những việc chính yếu sau Đại Hội có tầm vóc quốc tế này, Tổng Giám Mục cũng nói đến việc Hội thánh cần làm sau ngày Đại Hội, là: bám riết và hỗ trợ giới trẻ một khi Đại Hội bế mạc. Tổng Giám Mục Tobin công nhận: “Đây là thách thức không nhỏ đính kèm với kinh nghiệm mang nhiều cảm tính đã diễn ra. Nếu đây là điểm chuẩn cho mọi công tác về sau, thì cũng khó mà tái tạo được nó. Hãy hỏi các cặp vợ chồng trẻ mới cưới để xem họ cảm nghiệm thế nào trong đời mình, khi phải giáp mặt thực trạng cuộc sống cụ thể, như: phải giải quyết cả thau nồi niêu bát dĩa ngập đến đầu từ lâu, chưa kịp rửa. Hãy cứ hỏi những cặp vợ chồng có con còn nhỏ đang đau yếu hoặc những cặp vừa lấy nhau xong đã mất việc. Hỏi, để biết rằng niềm vui ngày mới cưới nào đã kéo dài, mãi thiên thu.
Dĩ nhiên, yêu đương là một nghệ thuật ở đời. Nhưng đó vẫn là nghệ thuật đòi hỏi nhiều kỷ luật và thao tác, đôi lúc cũng dẫn đến thất bại. Nhưng, bất cứ ai đương yêu cũng đều biết mình có cả một đời để sống và làm cho đúng hết mọi việc. Đấng bậc tu trì nào từng tiếp xúc với bất kỳ người trẻ ở đâu, cũng đều coi đó như phút chốc của mời gọi. Mời và gọi, là bởi giới trẻ bao giờ cũng kiếm tìm một giải pháp thoả đáng cho đời mình, xem mình có thích hợp với khuôn khổ đời tu hay không. Bởi thế nên, đấng bậc tu trì cũng cần để tai mà lắng nghe tâm tư của người trẻ. Biết rõ lai lịch họ và gọi mời họ thử xem đời sống tập thể với tu trì có thích hợp với điều mình kiếm tìm không.
Là đấng bậc chuyên đặc trách về Đời Tu, nên Tổng Giámmục Tobin cũng để ý nói: “Người trẻ không muốn các đấng bậc tu trì đánh giá thấp hoặc coi nhẹ đòi hỏi của Tin Mừng mình nghe biết. Thông thường, người trẻ chỉ dấn thân tham gia đời sống tu trì cộng đoàn mỗi khi được yêu cầu, mời gọi thôi. Và Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là cung cách yêu cầu họ sống đáp trẻ lời mời gọi ấy.“
Ngay tại các nước bị lung lay sau những vụ tai tiếng do một số giáo sĩ mắc phải lầm lỡ/sơ xuất qua phong cách xách nhiễu tình dục, nay vẫn thấy có ơn gọi giáo sĩ và đời tu: “Bản thân tôi, tôi nhìn sự việc bằng ánh mắt lạc quan ngay cả vào ngày đen tối xảy đến vụ 9 tháng 11 ở Hoa Kỳ. Khi ấy, tôi thấy nhiều người tìm cách tháo chạy khỏi hai toà nhà chọc trời đang bị hun cháy, thì cùng lúc ấy vẫn thấy có những người trẻ vẫn chạy về phía khói đen mù mịt có lửa bốc thiêu rụi cả con người lẫn vật dụng. Trong số những người ấy, tôi thấy có cả lính cứu hoả, cảnh sát cũng như nhân viên cứu trợ, đầy đủ cả. Ngay trong lòng Hội thánh cũng thế. Dù một số vị đang bị tai tiếng làm lung lay, suy sụp thì nỗi niềm giận dữ, nghiêm khắc vẫn rực sáng và có nhiều người trẻ vẫn cứ chạy về phía đó. Nhìn kỹ mới thấy, cái lôgích rất rồ dại của cuộc sống là chấp nhận có mất mát trong đời mình, có thế mới cứu vãn được chính nó.” (x. Cindy Wooden, “Church must not treat the young as aliens”, The Catholic Weekly 21/8/2011, tr. 23)
Về với chuyện buồn vui đời người, là về với nghệ sĩ vui cứ viết lên ca từ buồn, sau đây:
“Ta vẫn chờ em, dưới gốc sim già đó, Để hái dâng người, một đóa đẫm tương tư, Đêm nguyệt cầm, ta gọi em trong gió. Sáng linh lan, hồn ta khóc bao giờ.
Ta vẫn chờ em, trên bao la đồi nương, Trong mênh mông chiều sương, Giữa thu vàng bên đồi sim, trái chín Một mình ta, ngồi khóc tuổi thơ bay.”
(Vũ Đức Sao Biển – bđd)
Nói cho cùng, thì buồn vui đời người đâu nằm ở nơi lời nói, hoặc câu ca. Nhưng vẫn cứ là và có thể là ý tưởng/lập trường sống, có chọn lựa. Chọn mừng vui hay buồn chán, cả một đời, vẫn còn đó âm hưởng của lời ca, không vui lắm:
“Thời gian nào, trôi bềnh bồng trên phận người, Biệt ly nào, không muộn phiền trên dấu môi. Mùa vàng lên, biêng biếc bóng chiều rơi, Nhạc hoài mong, ta hát vì xa người.
Thu hát cho người.
Thu hát cho người, người yêu ơi! “
(Vũ Đức Sao Biển – bđd)
Tắt một lời, hãy nói và hát như nghệ sĩ ngoài đời, ở đời thường, dù có viết bài ca những là “Thu hát cho người”, thế nào đi nữa, cuối cùng vẫn cùng ông công nhận rằng: “Tình yêu. Đó là thứ quý giá nhất trong cuộc sống. Chính tình yêu thương con người đã chắp cánh cho tâm hồn và cả nghị lực sống của tôi, cho tôi cảm xúc thăng hoa trong sáng tác. Và, tôi là người lữ hành đam mê tình yêu...”
Nếu vậy thì, xin mời bạn và mời tôi, mời cả các vị trong ngoài nhà Đạo, ta hãy dấn thân vào giòng đời, mà giữ Đạo. Cứ thế mà sống Đạo, vẫn rất đạo. Dấn thân, để rồi sẽ luôn nghe theo lời dặn dò của Đức Chúa từng ở Tin Mừng, với mọi người, rằng:
“Nếu anh em không hoán cải
trở nên như người trẻ/bé nhỏ,
anh em sẽ chẳng vào được Nước Trời đâu.”
(Mt 18: 3)
Người trẻ nhỏ bé mọn vừa qua đã đặt chân đến thủ phủ Madrid ở Tây Ban Nha hoặc ở đây, nơi này vẫn là bạn, là tôi, đang sống giữa cuộc đời có cả điều buồn lẫn chuyện vui. Nhưng còn gì vui hơn, khi người người nay áp dụng lời dạy của Thầy Chí Ái, mà sống thực đời mình, cùng mọi người.
Sống rất vui, bên cạnh những người buồn. Sống tinh thần trẻ, cả trong lòng Giáo hội nay đã già. Già, nơi thân xác. Đầu óc. Nhưng không già, trong quyết tâm đổi mới với Lời Chúa, ở quanh ta.
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn nhớ nhiều
những điều Thầy từng dạy,
rất như trên.

Không có nhận xét nào: