Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2011

Làm Kitô hữu

Làm Kitô hữu không phải là kết quả của một sự lựa chọn về đạo đức

Bài suy niệm Kinh Thánh Chúa Nhật 30 Mùa Thường Niên A


Lm. Thomas Rosica

TORONTO, 18/10/2011 (Zenit.org)-Bài đọc thứ nhất hôm nay từ sách Xuất Hành (22,20-26) và trình thuật Tin Mừng Matthew về điều răn trọng nhất (22,34-40) thách đố chúng ta trong những cách chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em.

Bài đọc Sách Xuất Hành tường thuật một số điều khoản đặc biệt của Luật liên hệ đến các bà goá, cô nhi và người nghèo. Chúa nhắc dân Người rằng chính họ một thời đã là những kẻ ngoại kiều trong một đất nước ngoại bang. Đối với những ngoại kiều, các bà goá, các cô nhi và những người nghèo chúng ta phải bày tỏ sự công bằng và lòng thương cảm. Nếu không, Chúa sẽ phạt những người làm sai và binh vực những kẻ không được giúp đỡ.

Chúa đối xử nghiêm khắc với những thái độ và hành động tiêu cực của chúng ta đối với những kẻ khác. Sự chân chính của đức tin chúng ta, tình yêu Thiên Chúa của chúng ta và sự tương quan của chúng ta với Chúa Kitô được đo bằng những cách chúng ta đối xử những kẻ khác. Các bài đọc thách đố chúng ta tìm kiếm sự hối hận và sự tha thứ cho những thái độ tiêu cực chúng ta đối với những kẻ khác và cách thức chúng ta có khuynh hướng đối xử những kẻ khác.

Chúa Giêsu bị thử thách

Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 22,34-40) chứa đựng lời cầu nguyện cơ bản của kinh “Shema,” lời tuyên xưng đức tin của người Do Thái: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất”. (Đnl 6,4). Giống như chúng ta tuyên xưng đức tin chúng ta bằng kinh Tin Kính trong phụng vụ Kitô giáo, dân Do Thái tuyên xưng đức tin của họ với kinh Shema trong những buổi phụng vụ tại hội đường của họ. Shema là một bản tóm của tôn giáo thật: ”Nghe đây, Hỡi Israel: Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất; hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em.”

Matthêu 22,34-40 có một đoạn song đôi trong Marcô (12,28-34), đó là một cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và một kinh sư ấn tượng bởi cách thức trong đó Chúa Giêsu đã cư xử trong cuộc tranh luận trước, ông này ca ngợi Chúa Giêsu vì câu trả lời của Người, và ông được Chúa Giêsu bảo “không xa nước Thiên Chúa.” Matthêu đã phát triển thêm cảnh huống này.

Sự uyên bác của những người Pharisêu là sự hiểu biết Luật, mà họ coi như là tổng kết sự khôn ngoan và là kiến thức duy nhất chân thật. Vị trí của kinh sư trong cộng đồng Do Thái là một nơi được trang trọng dành cho người lãnh đạo. Mới xem qua, câu hỏi của học giả với Chúa Giêsu có vẻ rất là lương thiện.

Các thầy dạy Torah (các kinh sư và rabbi) đã luôn luôn tranh cãi về tầm quan trọng tương đối của các điều răn trong Cựu Ước. Các kinh sư là những học giả và nhà trí thức trong Do Thái giáo. Các thầy Pharisêu phân biệt rõ 613 lề luật trong Torah (năm quyển sách đầu Kinh Thánh). Trong số 613 luật này, có 248 lệnh truyền tích cực -“anh em sẽ”- và 365 là tiêu cực –“anh em đừng có.” Câu hỏi cơ bản “Điều răn nào là trọng nhất?” giúp cho Chúa Giêsu có một buổi giảng dạy quan trọng đang khi Người bị họ thử thách.”

Trong câu trả lời của Người, Chúa Giêsu trưng dẫn sách Đệ nhị luật 6,4-5 và những câu của kinh Shema, người Do Thái đọc hằng ngày. Tuy Chúa Giêsu được hỏi về một điều răn, nhưng Người lại đưa ra hai trong câu trả lời của Người. Trong sự pha trộn hai điều răn, Chúa Giêsu đi quá tầm xa câu hỏi đặt ra cho Người và liên kết điều răn thứ nhất và trọng nhất với một điều răn thứ hai, điều răn thương yêu anh em (Lv 19,18). Điều răn kép là nguồn từ đó toàn thể luật và các tiên tri phát sinh. Chúa Giêsu không loại bỏ những điều răn khác. Người nói thêm rõ ràng : “Tất cả luật và các tiên tri đều dựa trên hai điều răn này.” Điều đáng chú ý là “học viên” bày tỏ sự đồng thuận với Chúa Giêsu bằng cách hỏi han Người mà không có ý nào thù nghịch hay chế giễu.

Yêu Chúa và yêu anh em không phải là một ý niệm đầu tiên phát xuất từ Chúa Giêsu

Yêu Thiên Chúa và yêu anh em như là chu toàn lề luật không phải là một ý niệm nguyên gốc của Chúa Giêsu. Điều này hiện hữu trong Kinh Thánh Do Thái rất sớm. Tuy nhiên có điều gì đó độc đáo trong sự khẳng định của Chúa Giêsu là hai điều răn đó giống nhau. Chúa Giêsu dạy rằng chúng ta không thể có cái này mà không có cái kia. Lý do yêu thương người anh em chúng ta phát sinh từ việc chúng ta yêu Chúa; sự chúng ta yêu Chúa được chứng tỏ và tăng cường bởi sự chúng ta yêu anh em.

Huấn giáo của Môisen và Chúa Giêsu

Ông Moisen dạy trong kinh Shema (x. Đnl 6,5 ; Lv 19,34) -và Chúa Giêsu tái khẳng định trong Tin Mừng hôm nay là tất cả những điều răn được tổng kết trong tình yêu Thiên Chúa và sự nhân hậu yêu đương đối với người anh em ta. Mỗi khi Chúa Giêsu đọc kinh “Shema Israel” và khi các Kitô hữu nhớ lại hai điều răn trọng nhất và nhì, chúng ta được đem xích gần lại với nhau, nhờ ân sủng Chúa. Mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá là chúng ta phác hoạ kinh Shema trên thân xác chúng ta vì khi chúng ta chạm đầu, ngực và vai chúng ta thì chúng ta hứa sử dụng chúng để phục vụ Thiên Chúa.

Thiên Chúa là tình yêu

Trong ánh sáng các bài đọc Kinh Thánh hôm nay, chúng ta hãy suy niệm về hai văn bản tuần này. Văn bản thứ nhất là Số 42 từ “Lumen Gentium,” Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội của Công Đồng Vatican II.

“Thiên Chúa là tình yêu, và ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy.” Nhưng, Thiên Chúa đổ tình yêu của Người vào trong tâm hồn chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần, đấng đã được ban cho chúng ta; như vậy ân huệ thứ nhất và hầu như cần thiết là tình yêu, nhờ đó chúng ta yêu Thiên Chúa trên tất cả mọi sự và yêu anh em chúng ta vì Thiên Chúa.

Trên thực tế, để cho tình yêu này, như hột giống tốt có thể phát triển và sinh trái trong tâm hồn, mỗi người tín hữu phải sẵn sàng nghe Lời Chúa và đón nhận ý muốn của Người, và phải hoàn thành điều gì Thiên Chúa đã khởi sự bằng chính những hành động của họ với sự giúp đỡ của ân sủng Chúa. Những hành động này hệ tại việc sử dụng các bí tích và cách riêng Thánh Thể, tham gia thường xuyên trong hành động thánh Phụng Vụ, siêng năng cầu nguyện, từ bỏ mình, phục vụ anh em cách sống động và thực thi bền bỉ tất cả các nhân đức. Đức bác ái, như là dây liên kết sự trọn lành và sự trọn vẹn lề luật, ảnh hưởng tất cả các phương tiện đạt tới sự thánh thiện và ban sức sống cho chính những phương tiện này. Chính đức bác ái hướng dẫn chúng ta tới mục đích cuối cùng. Chính tình yêu Thiên Chúa và tình yêu người anh em ta là bằng chứng người môn đệ đích thực của Chúa Kitô.

Văn bản thứ hai trích từ những đoạn mở đầu thông điệp 2005 của Đức Giáo Hoàng Benedict XVI “Deus Caritas est” (Thiên Chúa là Tình yêu), và tổng kết cách tốt đẹp sứ điệp của các bài đọc Kinh Thánh hôm nay:

“Trở thành Kitô hữu không phải là kết quả của sự chọn lựa đạo đức hay là một ý niệm cao siêu, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố, một con người, điều này ban sự sống cho một chân trời mới và một hướng đi quyết định. (…) Trong sự thừa nhận tính trung tâm của tình yêu, đức tin Kitô hữu đã giữ lại cốt lõi đức tin của Israel, vừa đồng thời ban cho nó chiều sâu và chiều rộng mới. Người Do Thái đạo đức cầu nguyện hằng ngày bằng những lời Sách Đệ nhị luật diễn tả trung tâm sự sống của họ: “Nghe đây, hỡi Israel: Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất, Hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ và hết sức của anh em” (6,4-5). Chúa Giêsu kết hiệp thành một giáo huấn duy nhất điều răn tình yêu Thiên Chúa và tình yêu anh em đọc thấy trong Sách Lêvi : “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (19,18 ; x. Mc 12,29-31). Vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (x. 1 Ga 4,10), nên tình yêu bây giờ không còn thuần tuý là một “điều răn”; mà là sự đáp trả cho ân huệ tình yêu làm cho Thiên Chúa xich gần tới chúng ta.”

Chân Phước Têrêsa thành Calcuta

Mới đây tôi có một số bàn cãi dài dòng với nhiều người Công Giáo tốt xưng mình là “tiên tri” trong sự họ lo lắng cho những vấn đề công bằng xã hội trong Giáo Hội. Đang khi đưa ra làm ví dụ một số mẫu người có vai trò quan trọng về sự công bình xã hội đích thực theo truyền thống Công Giáo như tổng gám mục Oscar Romero và Dorothy Day, thì họ hoàn toàn có thái độ tiêu cực về Chân Phước Têrêsa thành Calcuta. Vì cho rằng bà không bao giờ đề cập tới những sự dữ có hệ thống thời đại chúng ta bây giờ. Họ nói Mẹ Têresa không bao giờ thể hiện- sự phê bình tiên tri đích thực, họ nói rằng mẹ chỉ là một kiểu mẫu vai trò an toàn cho một Giáo Hội do nam nhân thống trị !

Điều luôn luôn ấn tượng tôi về Mẹ Teresa và các chị em nữ tu của bà là khi họ nói về sự yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, và “sự chia sẻ cảnh nghèo, “họ bất chấp cái logic của nhiều thể chế và cơ quan của chúng ta ngày nay coi trọng hơn những chương trình nghị sự chính trị đối với kẻ nghèo thay vì sự hiệp thông sâu sắc, cá nhân với từng cá thể người nghèo. Những tác nhân và những dụng cụ của kiểu hiệp thông này bị sa thải như không thích hợp.

Điều Giáo hội tìm kiếm nơi các thánh không hẳn là những việc lành—vì có những giải thưởng Hoà Bình và những phần thưởng thế giới khác như vậy—nhưng chắc chắn rõ ràng là ứng viên phong thánh hay phong chân phước được biến đổi, bên trong và bên ngoài, bởi ân sủng Chúa và thể hiện một tình yêu sâu sắc đối với Thiên Chúa và anh em.

Cách đây nhiều năm khi lần đầu tiên tôi gặp Mẹ Têrêsa thành Calcuta sau khi mẹ huấn dụ một nhóm chị em trẻ của mẹ tại nhà đào tạo vùng ngoại ô thành Roma, mẹ đặt mạnh trong tay tôi một trong những danh thiếp danh tiếng của mẹ, không như bất cứ tấm danh thiếp nào tôi đã thấy lâu nay. Trên đầu tấm danh thiếp có in những chữ này: Hoa trái của sự thinh lặng là sự Cầu Nguyện. Hoa trái sự câu nguyện là ĐỨC TIN. Hoa trái đức tin là Tình Yêu. Hoa trái của tình yêu là Phục Vụ. Hoa trái việc phục vụ là Hoà Bình. Xin Chúa chúc lành cha. Mẹ Teresa.”

Tôi còn mang tấm danh thiếp này theo tôi. Không có địa chỉ, số điện thoại, e-mail hay là FAX trên danh thiếp. Chúng ta không cần bất cứ thông tin tiếp xúc nào vì mẹ sẵn sàng cho tất cả chúng ta trong sự hiệp thông của các thánh. Xin Mẹ Chân Phước Têrêsa thành Calcuta dạy chúng ta cách yêu Chúa và anh em trong sự hiệp nhất và hài hoà.

--- --- ---

Các bài đọc Chúa Nhật này là: Xh 22,20-26; Tv 18,2-3.3-4.47.51 ; 1 Tx 1,5c-10; và Mt 22,34-40.

* * *

Lm. Thomas Rosica

Đức Ông Phêrô Nguyễn Quang Sách chuyển ngữ

Không có nhận xét nào: